BẢN ÁN VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Tình huống:

Khoảng 19h ngày 16/11/2019, Đỗ Thanh T rủ Đặng Văn Tr đến thành phố Q để chơi game. Do không có xe đi nên Tr và T cùng đến nhà Trần Bá B ở gần nhà trọ của T để mượn xe. Lúc này, Trần Bá B cùng Lê Đức Th đang sơn nhà cho ông Trần Bá V ở sát nhà B.Tại đây Đặng Văn Tr là người trực tiếp hỏi mượn xe mô tô của Trần Bá B để vào thành phố Q chơi game thì B nói xe bị hư nên không cho mượn. Tr nhờ B mượn xe mô tô của Th giúp Tr thì B đồng ý. B leo lên giàn giáo và nói với Th về việc Tr hỏi mượn xe mô tô của Th thì Th đồng ý và nói B qua nhà của B lấy chìa khóa xe và xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen vàng, biển số kiểm soát 76D1-295.92 của Th để cho Tr và T mượn. Sau khi mượn được xe, T điều khiển xe mô tô chở Tr đi vào thành phố Q. Đến đoạn qua Chợ Bò thuộc địa phận xã Ph, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi thì Tr nảy sinh ý định cầm xe mô tô biển số kiểm soát 76D1-295.92 của anh Th để lấy tiền tiêu xài nên đã nói với T tìm chỗ cầm xe thì T đồng ý. T chở Tr đến quán ăn vặt phía Nam đầu cầu Trà Khúc của ông Nguyễn Anh Ph, tại đây T gặp bà Trịnh Thị Thanh T1 là vợ của ông Ph để hỏi mượn số tiền 2.700.000đ (hai triệu bảy trăm nghìn đồng) và để lại xe mô tô biển số kiểm soát 76D1-295.92 làm tài sản đảm bảo về việc mượn tiền cho bà T1 và hứa hôm sau lấy xe sẽ trả cho bà T1 số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng). Sau khi bà T1 thỏa thuận xong với T, bà T1 đưa số tiền 2.700.000đ (Hai triệu bảy trăm nghìn đồng) cho Tr, Tr đưa cho T số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) và giữ lại 1.700.000đ (Một triệu bảy trăm nghìn đồng). Đặng Văn Tr và Đỗ Thanh T đã tiêu xài hết số tiền trên vào mục đích cá nhân. Đến ngày 02/12/2019 vì không có tiền để trả cho bà T1 nên T đến chỗ bà T1 để lấy xe mô tô biển số kiểm soát 76D1- 295.92 mang đến gặp ông Nguyễn Văn Đ mượn số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng) và để lại xe mô tô biển số kiểm soát 76D1-295.92 cho ông Đ giữ. Tấn đem số tiền mượn của ông Đ trả cho bà T1. Sau đó vì không có tiền nên T và Tr không đến lấy xe mô tô 76D1-295.92 trả lại cho Th mà cố tình trốn, tránh anh Th, anh Th đã nhiều lần đến nhà của Tr để yêu cầu Tr trả xe nhưng không gặp Tr. Tại bản kết luận định giá số 02 ngày 06/01/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Sơn Tịnh, kết luận giá trị thành tiền tại thời điểm bị xâm hại của 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu đen vàng, biển số 76D1-295.92, số khung: PC30FY142164, số máy: 1FC3142464 (đã qua sử dụng) là 9.280.000đ (chín triệu hai trăm tám mươi nghìn đồng).

Nhận định của Hội đồng xét xử:

[1] Bị cáo Đặng Văn Tr, Đỗ Thanh T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng do ý thức xem thường pháp luật, vào ngày 16/11/2019 sau khi bị cáo Tr và bị cáo T mượn xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen vàng biển số 76D1-295.92 của anh Lê Đức Th với mục đích để sử dụng thì nảy sinh ý định cầm cố xe để lấy tiền tiêu xài cá nhân. Bị cáo Tr và T đã đem xe mô tô biển số 76D1-295.92 dùng làm tài sản đảm bảo để mượn tiền, sau đó mặc dù anh Th nhiều lần yêu cầu trả xe nhưng bị cáo Tr và T không lấy xe về trả cho anh Th. Giá trị xe mô tô biển số 76D1-295.92 tại thời điểm bị xâm phạm là 9.280.000đ (Chín triệu hai trăm tám mươi nghìn đồng).

[2] Hành vi của các bị cáo Đặng Văn Tr, Đỗ Thanh T đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự Hành vi của bị cáo Đặng Văn Tr, Đỗ Thanh T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác nên cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng để giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên trong vụ án này bị cáo Tr và T thực hiện hành vi phạm tội có tính chất đồng phạm giản đơn, trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội giữa các bị cáo không có sự phân công, bàn bạc vai trò cụ thể. Do đó khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất, mức độ, vai trò và hành vi cụ thể để nhận định mức hình phạt của từng bị cáo như sau: Bị cáo Đặng Văn Tr là người khởi xướng, chủ động rủ rê bị cáo Đỗ Thanh T và là người nhận số tiền do phạm tội mà có nhiều hơn bị cáo T.

[3] Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Đỗ Thanh T là người bị bị cáo Tr rủ rê, lôi kéo, trong vụ án này bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò là người thực hành và là người nhận số tiền do phạm tội mà có ít hơn bị cáo Tr. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

 

Chi tiết bản án tại: BAN AN LAM DUNG TIN NHIEM CHIEM DOAT TS

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

.
.
.
.